Hội
thảo diễn ra trong khuôn khổ Hội thảo Khoa học và Công nghệ trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường, là một trong chuỗi các sự kiện của Hội nghị Môi
trường toàn quốc lần thứ IV.
Tham dự hội thảo có hơn 100 đại biểu là
các nhà khoa học, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và
Công nghệ, Bộ Công Thương và các Bộ ngành liên quan; đại diện các Sở Tài
nguyên và Môi trường; Sở Khoa học và Công nghệ; Sở Công thương và các
Sở khác liên quan; các Viện nghiên cứu, trường Đại học; các tổ chức,
doanh nghiệp trong nước và quốc tế có hoạt động liên quan đến công nghệ
môi trường.
Phó Cục trường Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường Hồ Kiên Trung phát biểu tại hội thảo
Mục tiêu của hội thảo nhằm đánh giá thực trạng áp dụng và triển
khai các tiến bộ khoa học và ứng dụng công nghệ trong công tác BVMT và
bảo tồn đa dạng sinh học, giai đoạn 2010 - 2015. Đồng thời, đề xuất và
định hướng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phục vụ BVMT và
bảo tồn đa dạng sinh học trong giai đoạn 2016 - 2020.
Tại hội thảo, 09 báo cáo tham luận trình
bày đã đưa ra bức tranh tổng quan về công nghệ môi trường đang được áp
dụng tại Việt Nam, bao gồm các công nghệ xử lý chất thải rắn bao gồm
chất thải sinh hoạt, chất thải rắn nguy hại, nước thải, khí thải, xử lý
cải tạo và phục hồi đất bị ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật tồn
lưu,...
Trong thời gian qua, các ứng dụng khoa
học, công nghệ trong xử lý, khắc phục ô nhiễm và cải tạo môi trường đã
tạo cơ sở vững chắc trong việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp
luật, hoàn thiện cơ chế chính sách, góp phần tạo thị trường công nghệ
trong xử lý ô nhiễm, cải tạo và phục hồi môi trường, giảm chi phí cho
các doanh nghiệp trong áp dụng những công nghệ được sản xuất trong nước,
giúp các nhà khoa học, các doanh nghiệp có thể tiếp cận các công nghệ
tiên tiến trên thế giới trong xử lý ô nhiễm, cải tạo và phục hồi môi
trường.
Tuy nhiên, các đại biểu cho rằng về cơ
chế chính sách còn hạn chế, chưa tạo hành lang pháp lý và môi trường để
khuyến khích phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường và sản
phẩm thân thiện với môi trường, chưa đầu tư cho tăng trưởng xanh, phát
triển ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, chưa có đầy đủ hệ thống
quy chuẩn kỹ thuật về môi trường, định mức kinh tế, kỹ thuật để đánh
giá công nghệ.
Nhiều loại hình và trình độ công nghệ
chưa đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu quy định trong xử lý chất thải công
nghiệp, hóa chất nguy hại, bao bì thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu, chất
thải y tế, chất thải nguy hai, các công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường
chưa tận dụng và thu hồi nguồn năng lượng từ quá trình xử lý ô nhiễm môi
trường,...
Hội thảo đã nghe những trao đôi thẳng
thắn, sôi nổi về những kiến nghị, giải pháp nhằm kế thừa và đẩy mạnh
ngành công nghiệp môi trường, hoạt động nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung và cải tạo,
phục hồi và xử lý ô nhiễm môi trường.
Theo PGS.TS. Nguyễn Việt Anh, Viện
trưởng, Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường (IESE), Trường Đại học Xây
dựng, hiện nay đã có 30 hệ thống thoát nước và xử lý nước thải (XLNT)
tập trung được đưa vào khai thác, đưa tỷ lệ lượng nước thải được xử lý
tăng lên từ dưới 10% năm 2005 lên 22% năm 2015. Trên 30 dự án thoát nước
và XLNT khác đang được triển khai ở các đô thị. Tổng kinh phí đầu tư
cho thoát nước và XLNT đô thị trung bình 228 triệu USD/năm. Tuy nhiên,
do quá trình phát triển đô thị hóa quá nhanh và điều kiện kinh tế khó
khăn, năng lực của hệ thống kỹ thuật hạ tầng đô thị nói chung và hệ
thống cấp thoát nước đô thị nói chung còn nhiều bất cập.
Tại hội thảo, Ông Phạm Sinh Thành, ThS.
Công nghệ môi trường cho biết năng lực ngành công nghiệp môi trường
đến nay mới đáp ứng được 2-3% nhu cầu xử lý nước thải đô thị,
15% nhu cầu xử lý chất thải rắn, khoảng 14% nhu cầu xử lý
chất thải nguy hại; nhiều lĩnh vực như tái chế dầu thải, nhựa
phế liệu, chất thải điện, điện tử chưa phát triển.
Việt Nam cần có mã ngành kinh tế
và danh mục mã sản phẩm của ngành công nghiệp môi trường Việt
Nam để nhận dạng sản phẩm, thiết bị, làm căn cứ để quy định
các chính sách thuế xuất nhập khẩu đối với hàng hóa là sản
phẩm và thiết bị của ngành này. Đây cũng là cơ sở để các
Bộ, ngành xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
tương ứng đối với các thiết bị, sản phẩm của ngành công
nghiệp môi trường, làm chuẩn mực cho các đánh giá, so sánh
trong các hoạt động thẩm định, lựa chọn cũng như định giá
thiết bị, sản phẩm của các dự án đầu tư phát triển công
nghiệp môi trường, theo ThS Thành.
Để thúc đẩy nghiên cứu khoa học công
nghệ nói chung và phát triển công nghệ môi trường nói riêng, các đại
biều đều thống nhất cẩn chú trọng các giải pháp như đảm bảo nguồn lực
hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ,
tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về các công nghệ để xử lý, tái
chế từ chất thải đặc thù, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tăng cường
áp dụng các công nghệ trong tái chế, tái sử dụng nước thải và bùn cặn
trong nông nghiệp, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách, hệ thống các
quy chuẩn kỹ thuật về môi trường, định mức kinh tế kỹ thuật làm cơ sở
khoa học cho công nghệ xử lý chất thải, xây dựng cơ chế xác định giá
dịch vụ phù hợp để tạo cơ hội cho các hợp đồng nhượng quyện vận hành,
khai thác công trình xử lý trở nên hấp dẫn hơn qua đó thúc đẩy xã hội
hóa các hoạt động dịch vụ xử lý ô nhiễm môi trường,...