|
Trẻ em ở thôn 13, xã Cư Kbang, huyện Ea Súp lấy nước sinh hoạt từ công trình cấp nước tập trung |
Chẳng hạn, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ
sinh tăng từ mức 69,13% (năm 2010) lên 83,19% (năm 2013); tỷ lệ trường
học mầm non, phổ thông ở nông thôn có đủ nước sạch và nhà tiêu hợp vệ
sinh tăng từ 83,7% lên 85,7%; tỷ lệ trạm y tế xã có nước và nhà tiêu hợp
vệ sinh tăng từ 76,63% lên 91,11%; tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ
sinh tăng từ 41,47% lên 88,24%; tỷ lệ hộ gia đình có chuồng trại gia
súc hợp vệ sinh tăng từ 35,38% lên 49,4%...
Dù vậy, thực tế triển khai Chương
trình này cũng đang gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế, đáng kể là số công
trình cấp nước sinh hoạt tập trung được đầu tư xây dựng mới còn ít; tỷ
lệ công trình bị hư hỏng, xuống cấp lớn do đã được đầu tư từ lâu; trách
nhiệm quản lý, điều hành của UBND một số huyện, xã chưa cao; công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân trong việc sử dụng nước
sinh hoạt hợp vệ sinh một cách tiết kiệm, hợp lý và giữ gìn, bảo vệ tài
sản công cộng chưa được thường xuyên, sâu rộng; năng lực của các đơn vị,
cá nhân được giao quản lý công trình còn nhiều yếu kém; người dân chi
trả tiền nước không đầy đủ nên thu không đủ chi, không có kinh phí sửa
chữa, bảo dưỡng khi công trình bị hư hỏng, xuống cấp.
Lê Ngọc (Theo Báo Đắk Lắk)