Việt Nam là quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc, với 2.360 con
sông có chiều dài hơn 10 km, trong đó có 109 con sông chính. Trên cả
nước có 16 LVS, với lưu lượng nước lớn hơn 2.500 km 2; 10 trong số 16
LVS có diện tích hơn 10 nghìn km 2 . Tổng lượng nước mặt của các LVS
khoảng từ 830 đến 840 tỷ m 3 /năm, tuy nhiên chỉ có khoảng 37% là nước
nội sinh, còn lại là nước chảy từ các quốc gia láng giềng vào lãnh thổ
Việt Nam. Những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân ở hạ lưu hầu hết các
LVS nằm trong tình trạng suy giảm nguồn nước dẫn tới thiếu nước, khan
hiếm nước không đủ cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất đang diễn ra thường
xuyên hơn trên phạm vi rộng và ngày càng nghiêm trọng. Thực trạng này đã
gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái các dòng sông, ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, đã làm thay đổi hiện trạng sử
dụng đất, cho nên sông, hồ trong các đô thị dần bị thu hẹp dòng chảy,
thậm chí có nơi bị lấp hoàn toàn để lấy đất phục vụ xây dựng các công
trình giao thông, khu dân cư, nhà máy, khu công nghiệp (KCN). Song song
với quá trình đô thị hóa, là sự phát triển của các KCN, cho nên nhu cầu
sử dụng nước ngày càng lớn. Điều này đã và đang gây sức ép đến nguồn
nước sử dụng, cũng như chất lượng môi trường nguồn nước mặt ở nước ta bị
ô nhiễm ở nhiều khu vực và đang có xu hướng mở rộng về phạm vi và mức
độ ô nhiễm. Cụ thể, ở khu vực miền bắc, nhất là khu vực đồng bằng sông
Hồng, môi trường nước mặt ở nhiều nơi đã bị ô nhiễm. Tại LVS Cầu hiện có
nhiều đoạn sông chảy qua các khu vực đô thị, KCN và các làng nghề
truyền thống bị ô nhiễm nghiêm trọng thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc
Giang, Bắc Ninh…
Tại khu vực miền trung và Tây Nguyên, môi trường nước lại chịu tác
động chủ yếu do nước thải của ngành công nghiệp chế biến như cao-su, mía
đường, tinh bột sắn, cà-phê…, hoạt động chăn nuôi, nhất là từ các công
trình thủy điện nhỏ. Khu vực Đông Nam Bộ, chủ yếu nguồn nước bị ô nhiễm
là do nước thải công nghiệp và sinh hoạt, song vấn đề ô nhiễm chỉ tập
trung tại vùng trọng điểm phát triển kinh tế – xã hội phía nam, nơi có
nhiều đô thị và KCN. Theo số liệu thống kê, ở khu vực này có 114 KCN,
khu chế xuất (KCX) đang hoạt động, chủ yếu tại các tỉnh, thành phố như
Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh… song hiện vẫn
còn hơn 30% số KCN, KCX chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Đáng
chú ý, khu vực này là nơi có tỷ lệ dân cư sống ở khu đô thị cao nhất
của cả nước (chiếm 57%). Hiện, chỉ có TP Hồ Chí Minh mới lắp đặt được hệ
thống xử lý nước thải tập trung, nhưng mới chỉ đáp ứng được một phần so
với yêu cầu thực tế…
Trong thời gian qua, các cấp có thẩm quyền đã ban hành hàng loạt các
chính sách, văn bản như tổ chức phân công trách nhiệm quản lý môi trường
nước tại các cấp; triển khai xây dựng và thực hiện các quy hoạch LVS;
tăng cường công tác đánh giá môi trường bằng việc cấp phép xả thải,
thanh tra, kiểm tra, quan trắc môi trường nước; xây dựng nguồn lực cho
công tác này, cũng như huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý
môi trường nước… Tuy nhiên, trước những áp lực và hiện trạng chất lượng
môi trường nước hiện nay, công tác quản lý môi trường nước ở nước ta
đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, cho dù chúng ta đã ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật đã tạo hành lang pháp lý, nhưng các quy
định vẫn chưa đầy đủ và còn chồng chéo trong hệ thống văn bản, tính thực
thi của một số văn bản còn thấp, chưa sát với tình hình thực tế…
Ở cấp địa phương, công tác thực thi các văn bản còn chậm và không
triệt để, điển hình như quy định về cấp phép, xử lý vi phạm hành chính
đối với ô nhiễm môi trường tại một số địa phương. Công tác thanh tra,
kiểm tra và quan trắc môi trường chưa phát huy được hết vai trò, do
nguồn lực chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. Sự tham gia
của cộng đồng trong quản lý và bảo vệ môi trường (BVMT) nước còn nhiều
hạn chế, cũng như sự hợp tác quốc tế thiếu tính bền vững và hiệu quả sau
khi kết thúc các dự án, chương trình…
Để từng bước nâng hiệu quả trong công tác quản lý và bảo vệ nguồn
nước, cũng như khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt, nhất là tại
các khu đô thị, KCN, KCX ở các địa phương hiện nay, các cấp có thẩm
quyền trước hết cần tập trung rà soát, bổ sung và hoàn thiện chính sách
pháp luật, thể chế về BVMT nguồn nước mặt; điều chỉnh phân công trách
nhiệm cụ thể hơn nữa giữa các bộ, ngành, giữa T.Ư và địa phương, tránh
sự chồng chéo như thời gian qua.
Sớm xây dựng và triển khai việc quy hoạch LVS, quy hoạch phân vùng
khai thác sử dụng nước, nhất là tăng cường công tác kiểm soát ô nhiễm
môi trường nước mặt tại các khu vực trọng điểm để từ đó áp dụng các công
cụ kinh tế, các giải pháp khoa học công nghệ trong BVMT nước; đồng thời
khuyến khích sự tham gia, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong công
tác giám sát môi trường nước nơi mình sinh sống; thúc đẩy các hoạt động
quốc tế trong quản lý và BVMT nước, nhất là vấn đề xuyên biên giới…
Tại các LVS khu vực miền bắc, các cơ quan chức năng cần tăng cường
thanh tra, kiểm soát các khu vực ô nhiễm nghiêm trọng và triển khai các
biện pháp xử lý nước thải tại các KCN, KCX, các làng nghề nằm trên LVS;
đẩy mạnh việc xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt
tại các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… Các LVS thuộc khu
vực miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long cần tiếp tục đầu tư hệ
thống xử lý nước thải tập trung tại các KCN, KCX; tăng cường giám sát
các hoạt động trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy, hải sản, bởi
đây cũng là tác nhân gây ô nhiễm môi trường mặt nước ở khu vực này thời
gian qua…
Theo vea.gov.vn