Tuy
nhiên, việc thực thi vẫn còn tương đối chậm. Chính vì thế, Ấn Độ đang
chuyển hướng sang khu vực tư nhân. Với thị trường thu gom và xử lý trị
giá 570 triệu đô la Mỹ, khu vực tư nhân đang thu hút rất nhiều sáng kiến
về xử lý rác thải. Rác thải đang đem lại những cơ hội kinh doanh mới
cho Ấn Độ.
Mỗi năm Ấn Độ
thải ra khoảng 50 triệu tấn chất thải rắn. Chất thải đô thị mỗi năm tăng
thêm 5% cùng với tốc độ phát triển đô thị và những thay đổi trong lối
sống và tiêu dùng. Những tiêu chuẩn quản lý chất thải hiện hành ở Ấn Độ
đã không còn phù hợp: Tỉ lệ thu gom tại các thành phố lớn đạt khoảng 70 -
90%, trong khi tại các thành phố nhỏ chưa tới 50%. Chôn lấp rác thải
bừa bãi, không qua xử lý là tình trạng phổ biến ở hầu hết các thành phố
của Ấn Độ. Hơn 91% số chất thải rắn được thu gom được chôn lấp ở các khu
đất mở, hoặc được chất đống lộ thiên, gây ra nhiều vấn đề môi trường
nghiêm trọng. Hàng năm, việc đốt hở thủ công rác thải và các bãi chôn
lấp rác thải tạo thành rất nhiều chất độc hại. Đây là việc làm cần phải
ngăn chặn ngay.
Để ứng phó, Chính phủ Ấn Độ đã hình thành Các quy
tắc Chất thải rắn đô thị năm 2000, ban hành những quy định áp dụng cho
các thành phố trên khắp cả nước không phân biệt quy mô và số lượng dân
số. Chương trình này đã đặt ra những mục tiêu và nhiệm vụ về thu gom,
phân loại, vận chuyển và xử lý chất thải đô thị hiệu quả hơn, đồng thời
xây dựng những chương trình nâng cao nhận thức về phân loại rác thải tại
nguồn nhằm tăng tỉ lệ tái chế rác thải. Tuy nhiên, công tác triển khai
vẫn còn chậm do chưa phổ biến rộng rãi tới người dân, do thiếu nguồn lực
tài chính, nhân sự, công tác đào tạo chưa hiệu quả, và do thiếu trách
nhiệm cũng như sự hỗ trợ từ Nhà nước. Chính vì vậy, Ấn Độ hiện đang
hướng đến những công cụ linh hoạt hơn gắn liền với khu vực tư nhân. Với
thị trường thu gom và xử lý chất thải hiện trị giá khoảng 570 triệu đô
la Mỹ, và thị trường tái chế có thể đạt từ 2,5 đến 3 tỉ đô la trong
tương lai không xa, khu vực tư nhân ngày càng trở nên cuốn hút đối với
ngành xử lý chất thải rắn đô thị. Giá năng lượng và nguyên liệu thô tăng
cũng thúc đẩy các doanh nghiệp Ấn Độ phải dự trữ tài nguyên, coi xử lý
rác thải như một cơ hội kinh doanh (Biểu đồ 1).
Trong
bối cảnh nguồn lực tài chính nhằm triển khai ứng dụng những quy định
này còn hạn chế, và các thành phố có thể phải nộp phạt hành chính nếu
không đạt được các tiêu chuẩn mới, những quy định này đã khuyến khích sự
tham gia của khu vực tư nhân nhằm chia sẻ năng lực kỹ thuật và quản lý
trong việc thiết lập một hệ thống quản lý chất thải tích hợp thông qua
quan hệ hợp tác công - tư có thể đem lại lợi nhuận. Khoảng 36% số hợp
đồng xử lý chất thải rắn đô thị tại Ấn Độ hiện nay có sự tham gia của
khu vực tư nhân. Có nhiều mô hình tham gia của khu vực tư nhân trong
chuỗi quy trình xử lý chất thải rắn đô thị Ấn Độ, bao gồm Mô hình trả
phí trong đó thành phố sẽ trả cho các công ty tư nhân xử lý chất thải
rắn một khoản phí đối với mỗi tấn rác thải được thu gom, phân loại và xử
lý. Đây là mô hình phổ biến nhất ở Ấn Độ. Điểm trừ của mô hình này là
các công ty tư nhân không có nhiều sáng kiến trong việc giảm lượng rác
thải chôn lấp, do đó lại gia tăng gánh nặng về tài chính và môi trường
cho các thành phố. Gần đây, một số công ty tư nhân của Ấn Độ như Hanjer
đã ký kết những hợp đồng dựa trên Mô hình không trả phí. Theo đó, các
công ty tư nhân xử lý chất thải rắn đô thị được thu gom mà không thu bất
cứ khoản phí nào. Doanh thu chủ yếu được tạo ra nhờ tái chế chất thải
được thu gom. Mô hình này khuyến khích giảm thiểu chất thải chôn lấp, và
đòi hỏi các công ty phải có công nghệ tiên tiến, sáng tạo để thu gom và
phân loại chất thải. Sự tham gia của khu vực tư nhân đã nâng cao hiệu
quả xử lý chất thải và cải thiện tình hình thực hiện nhờ có sự cạnh
tranh của các tổ chức có năng lực kỹ thuật, có nhiều kinh nghiệm, có
trách nhiệm, linh hoạt và quản lý tốt hơn. Phản ứng nhanh nhạy, cùng với
khả năng tập trung vốn, cung cấp dịch vụ tốt hơn gắn với hình ảnh doanh
nghiệp của các doanh nghiệp tư nhân chính là nhân tố thành công của các
doanh nghiệp này trong ngành công nghiệp xử lý chất thải.
Mô hình kinh doanh sáng tạo
Hanjer
là một trong số ít các doanh nghiệp áp dụng Mô hình không trả phí trong
xử lý chất thải rắn đô thị tại Ấn Độ. Công ty đã thành lập và điều hành
thành công 24 nhà máy xử lý chất thải rắn tích hợp, với tổng công suất 4
triệu tấn/năm hoặc 11.500 tấn/ngày. Các nhà máy này đã biến chất thải
rắn không nguy hại thành những sản phẩm tái chế như phân trộn, nhiên
liệu tái chế từ rác thải (RDF), cát và nhựa rắn - những sản phẩm vẫn
được bán trong thị trường mở.
Với mỗi một nhà máy, công ty đều ký
kết một hợp đồng BOOT (Xây dựng - sở hữu - kinh doanh - chuyển giao)
dài hạn (từ 20 đến 30 năm) với thành phố. Thông qua hợp đồng dài hạn,
công ty có quyền thành lập và vận hành nhà máy xử lý chất thải rắn, và
được thành phố đảm bảo không thu phí đối với vị trí của nhà máy. Để đạt
được lợi nhuận, Hanjer đã phát triển công nghệ sáng tạo nội bộ nhằm phân
loại chất thải rắn thành loại khô và loại ướt, và biến chúng thành
nhiều sản phẩm công nghiệp hữu dụng. Chính công nghệ tiên phong này đã
giúp công ty đạt được tỉ lệ tái chế cao hơn và tạo ra những sản phẩm có
chất lượng cao hơn. Hanjer có thể tái chế tới 85% lượng chất thải rắn
thu gom từ các thành phố. Con số này cũng chỉ đạt 65 - 70% ở Pháp, quốc
gia có tỉ lệ tái chế cao nhất.
Công ty có nhiều nhà máy được đặt ở
nhiều nơi với điều kiện khí hậu và thời tiết khác nhau trên khắp Ấn Độ.
Chính điều này đã tạo điều kiện để công ty hoàn thiện quy trình và công
nghệ của mình. Thành công lớn nhất của Hanjer chính là có thể sản xuất
ra nhiều loại sản phẩm giá trị gia tăng với sản lượng ổn định và chất
lượng cao, phù hợp với mục đích công nghiệp và thương mại (Biểu đồ 2).
Sản phẩm chất lượng cao
Trước
đây, phân trộn là lựa chọn thay thế cho phân bón nhưng do chất lượng
kém và do nguồn cung có vấn đề, nên nó không được ứng dụng rộng rãi. Do
đó, Hanjer đã đầu tư vào Nghiên cứu và Phát triển (R&D) để sản phẩm
phân trộn do công ty sản xuất đạt được chất lượng phù hợp. Từ năm 2006
đến năm 2008, đội ngũ marketing của công ty Hanjer đã tiến hành thí điểm
sản phẩm trên ruộng của người dân, và tiếp tục tương tác với họ để nhận
lại những phản hồi về sản lượng và chất lượng ruộng. Những cánh đồng
thí điểm này đã tạo ra sự thay đổi đúng như mong muốn đối với sản phẩm
“Phân trộn hữu cơ chất lượng cao” do công ty Hanjer sản xuất. Loại phân
trộn này đem lại một vài lợi ích. Thứ nhất, nó rẻ hơn phân hóa học 40%.
Thứ hai, sản lượng thu được cao hơn do số vi khuẩn trong phân trộn
Hanjer đã gia tăng hiệu quả của phân bón trên ruộng. Cuối cùng, sự phân
bố của Hanjer tại khắp các thành phố đã giúp công ty phân phối một lượng
lớn phân trộn với chi phí vận chuyển thấp nhất so với những nhà cung
cấp khác. Nhờ có kết quả thử nghiệm tốt, nhiều công ty phân bón lớn như
Tập đoàn Phân bón quốc gia Gujarat đã tìm đến Hanjer để hợp tác và kinh
doanh loại phân trộn này. Ngoài ra, bộ luật được Bộ Phân bón và Hóa học
Ấn Độ thông qua (quy định các công ty phân bón phải bán 3 túi phân trộn
cùng với 6 túi phân bón) đã giúp Hanjer chỉ trong vòng 2 năm đã ký được
hợp đồng hợp tác với 9 công ty phân bón nhằm thương mại hóa loại phân
trộn này, đồng thời bán trực tiếp cho người nông dân.
Được sử
dụng như một nguồn năng lượng trong nhiều ngành công nghiệp, RDF được
sản xuất bằng cách nghiền và khử nước của chất thải rắn bằng công nghệ
biến đổi chất thải. RDF truyền thống có tỉ lệ nhựa cao, khoảng 12 - 15%,
và độ ẩm khoảng 25 - 30% với tổng giá trị calo khoảng 4.500 Kcal. Chính
vì lí do này mà RDF được gọi là “siêu nhiên liệu” và giá cả không hề
phải chăng. Hanjer đã tìm ra cách để tinh chế sản phẩm hơn nữa bằng cách
giảm tỉ lệ nhựa xuống còn 5% và độ ẩm xuống còn 20%, biến sản phẩm
thành “RDF xanh” với tỉ lệ phát thải nằm trong giới hạn cho phép vì hàm
lượng nhựa của sản phẩm thấp. Nó đã trở thành loại nhiên liệu phổ biến
và thay thế trực tiếp cho than, than lignit và sinh khối. Thông qua một
loạt những tương tác với những khách hàng tiềm năng của loại RDF xanh
này, như các xưởng may mặc, các nhà máy hóa chất và các ngành công
nghiệp chế biến, Hanjer đã đưa ra được một giải pháp rẻ hơn và sạch hơn,
giúp tiết kiệm tới 30% tổng chi phí cho người dùng. Đối với các ngành
công nghiệp, RDF xanh không đòi hỏi bất cứ thay đổi nào từ lò hơi hiện
hữu vì lignit có thể chuyển hóa trực tiếp thành RDF xanh. Vì chất thải
rắn được thành phố chuyển giao miễn phí cho công ty, nên Hanjer có thêm
một lợi thế của sản phẩm với “chi phí đầu vào bằng không”. Giá than,
lignit và sinh khối tăng cũng là nguyên nhân cấp thiết khiến các công
ty, tập đoàn khách hàng lớn của than, lignit và sinh khối trước kia phải
chuyển sang sử dụng RDF xanh. Tính đến nay, các nhà máy điện và xi măng
đều đã chính thức hóa kế hoạch sử dụng RDF xanh và đã cùng Hanjer đẩy
lượng tiêu thụ RDF xanh từ 100 lên đến 400 tấn/ngày. Sắp tới, Hanjer dự
kiến bán khoảng 50% sản lượng RDF xanh cho các tập đoàn lớn và 25% cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhựa tái chế là sản phẩm phổ biến,
được chấp nhận rộng rãi trên thị trường. Sản phẩm này được sử dụng để
sản xuất khuôn nhựa, ống thoát nước, bảng màu… Với những sản phẩm kiểu
này, việc sử dụng nhựa nguyên chất chất lượng cao thường đắt gấp 3 lần
so với sử dụng nhựa tái chế, và cũng không cần thiết.
Thách thức và nhân tố thành công
Quy
trình thu gom rác thải ở Ấn Độ không phải là quy trình tối ưu đối với
các công ty xử lý. Rác thải mà những công ty này thu gom được thường chỉ
là những gì mà đội ngũ khoảng 500.000 người nhặt rác bỏ lại. Do đó,
những gì còn sót lại chỉ là những thứ không mấy giá trị. Cũng như vậy,
rác thải gia đình của Ấn Độ cũng kém hơn so với tiêu chuẩn của thế giới
về chất lượng, và vẫn được tập trung cả trong một thùng rác chung. Chính
việc không phân loại rác thải tại nguồn này đã khiến cho hoạt động tái
chế trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy, nhiều công nghệ tiên tiến của
thế giới cũng không phát huy tác dụng đối với loại rác thải này, và
nhiều công ty xử lý chất thải rắn không thể đạt được kết quả mong muốn.
Trong tình hình này, quan trọng là phải liên tục đầu tư vào R&D để
phát triển những công nghệ sáng tạo không ngừng.
Hanjer không
ngừng đầu tư vào R&D để chuyển sang những sản phẩm chất lượng cao và
tiến tới những phân khúc thị trường thông dụng hơn nhằm giảm thiểu tối
đa nguy cơ phân phối. Công ty đã áp dụng cách tiếp cận nhóm, nhắm tới
những khách hàng ở chính những khu vực có nhà máy của công ty, giảm chi
phí vận chuyển và tăng sự gần gũi và linh hoạt đối với khách hàng. Công
ty cũng tăng cường mở rộng các chi nhánh ở nhiều khu vực, để giảm thiểu
nguy cơ về mặt chính trị và nguy cơ đến từ các đối tác. Hanjer đã ký kết
những hợp đồng xử lý chất thải rắn dài hạn, với những cam kết chắc chắn
từ chính quyền thành phố nhằm đảm bảo lượng nguyên liệu thô tối thiểu.
Công ty cũng đã phát triển một công nghệ nội bộ nhằm kiểm soát những
công nghệ đã sử dụng, giúp giảm chi phí sản xuất xuống còn 50% trong 5
năm. Thiết bị máy móc của công ty có thể vận chuyển từ cơ sở này tới cơ
sở khác trong một thời gian ngắn để đảm bảo công suất và ngày hoàn
thành. Công ty có thể thành lập một nhà máy với công suất 500 tấn/ngày
trong vòng chưa đầy 9 tháng. Hiện tại, Hanjer đã chứng minh được đây là
công ty duy nhất với một hệ thống những nhà máy xử lý chất thải rắn có
tỉ lệ xử lý đạt hơn 90%. Nhờ có mô hình được điều chỉnh cho phù hợp với
điều kiện tình hình của Ấn Độ, Hanjer đã đem lại một lựa chọn thay thế
cho các thành phố mà không đòi hỏi thù lao, giúp các thành phố giảm nhẹ
gánh nặng môi trường thông qua tỉ lệ tái chế 85%, không đòi hỏi chi phí
phụ trợ đối với khu vực công. Một trong những thách thức lớn nhất đối
với Hanjer là phải làm sao để duy trì được những thành quả của công ty
về mặt xã hội cũng như môi trường. Hanjer đã đồng ý tuân theo những tiêu
chuẩn môi trường được giám sát bởi công ty kiểm toán thứ ba. Tất cả các
nhà máy của công ty đều có chứng nhận quốc tế (ISO 9001:2008, ISO
14001:2004 và OSHAS 18001:2007) và thường xuyên được ICLEI (Hiệp hội các
tổ chức chính phủ quốc gia và quốc tế cam kết phát triển bền vững) và
Hội đồng kiểm soát ô nhiễm Ấn Độ kiểm tra. Hanjer đã đạt được 6 giải
thưởng danh giá, như Giải Con công Vàng năm 2012 cho sáng kiến thân
thiện với môi trường trong quản lý chất thải rắn. Tuy nhiên, công ty vẫn
tiếp tục cải thiện để có thể đạt được các tiêu chuẩn quốc tế trong giai
đoạn trung hạn. Tiếp tục đầu tư cho R&D sẽ đóng vai trò chủ đạo đối
với công ty nhằm củng cố lợi thế tiên phong của công ty tại thị trường
trong nước và nhân rộng mô hình tại nước ngoài.
Theo tinnhanhmoitruong.vn